Chiếc xe đạp mất rồi, giờ mày tính sao?
Con đâu biết gì đâu sáng giờ con đi coi đánh bi da với anh Bảo mà. (anh Bảo là con mợ, người đang hỏi)
Hai ngày sau, mợ dẫn tôi đi qua phường 16 để coi thầy. Khi tới đó, sau khi kể cho thầy nghe đầu đuôi câu chuyện, mợ nói với thầy:
Thầy coi có người đó ở đây không?
Ở đó có 3 người, thầy đương nhiên là không phải, mợ lại càng không, chỉ còn lại tôi. Thầy trả lời chắc nịch: Không! Không có người đó ở đây.
Ra về, ngay sau đó ngoại cầm tiền đem qua cho mợ để đền chiếc xe bị mất nhưng tôi cản lại. Con không có làm, ngoại làm vậy chẳng khác nào thừa nhận?
Trong những câu chuyện thường ngày giửa những người hàng xóm. Ah, bà đại úy bửa nay đi đâu mà đẹp vậy? Hay bà thiếu tá sao tối qua đóng cửa sớm hen….Cho dù họ không kêu đích danh ê thằng con nhà trung sỹ, nhưng tôi cảm nhận được sự khinh thường từ họ. Khi đó tôi ở trọ nhà ngoại để đi học vì mẹ đi dạy rất xa, thưở ấy tôi học rất giỏi lúc nào cũng nhất nhì trong lớp. Rồi mẹ tôi cũng xin thuyên chuyển về gần nhà được, và tôi cũng trở về trong vòng tay của bà. Những đối xử bất công rồi tôi cũng quên theo thời gian.
Sau 1975 một thời gian tôi bị bắt lính (người ta gọi với tên gọi mỹ miều là trúng tuyển NVQS), 4 giờ sáng có 2 du kích vũ trang bằng súng trường CKC đập cửa và mang tôi lên xã, chắc họ sợ tôi trốn. Thế là tôi thành anh bộ đội cụ Hồ, trong 1 lần về thăm ngoại mấy năm sau đó, khi nghe tiếng gọi cửa thì thấy cậu về. Cậu đi cải tạo tuốt phương Bắc xa xôi trước cả khi tôi vào quân đội, tôi vui mừng chưa kịp mở miệng chào thì cậu đã cúi đầu: thưa cán bộ. Thì ra lúc đó tôi chưa thay bộ quân phục ra nên cậu nhìn không ra và tưởng là ông bộ đội nào đó….Cả mấy nhà trung úy, đại úy hàng xóm của cậu cũng thế dù đã biết là tôi là ai. Thế mới biết cái gọi là học tập cải tạo thật ghê gớm. Thật lòng mà nói trong lòng tôi lúc đó những hờn giận ngày xưa đã tiêu tán từ lâu, chỉ còn thấy thương cho những người ngày nào khạc ra gió ho ra lửa giờ trở nên mềm yếu thật đáng thương.
Lao động là vinh quang
Trong nhiều năm liền khi nghĩ về quá khứ hắn vẫn không hiểu được là bằng cách nào mà hắn tồn tại. Bước vào tuổi 17 lẽ ra đầy mơ mộng và đầy ắp những khát vọng vào đời, hắn lại bước vào tương lai bằng việc làm bốc xếp cho cộng ty chất đốt. Tuần 2 lần hắn leo lên thùng xe reo (xe tải nặng 3 cầu chủ động) để họ chở hắn lên rừng bốc về những xì te củi (m3) mà thợ rừng đã cắt sẳn. Nay Lâm đồng, mai Bù Đăng, Bù Đốp có khi ra tận ngoài Tánh Linh xa xôi.
17 tuổi, 48 kilo hắn có vẻ gầy yếu của một đứa trẻ suy dinh dưởng, không biết sức lực ở đâu ra mà hắn có thể lao động nặng nhọc trong cái môi trường khắc nghiệt đến vậy. Ngoài trời có khi lạnh cóng nhưng bọn bốc xếp tụi hắn thì mồ hôi lúc nào cũng ướt đẫm.Tuy nhiên thu nhập cũng khá, đủ cho hắn tồn tại. Thu nhập ở đây cần hiểu là bao gồm cả lương khoán việc cộng với những súc củi mà bọn hắn bao giờ cũng xin thêm đám thợ rừng và dùng số tiền bán được ăn nhậu sau mỗi chuyến đi.
18 tuổi sau một năm làm việc gia tài của hắn đã được thêm vào ngoài cái ba lô quần áo, còn có thằng con trai hậu quả của mối tình với cô chủ quán cà phê tại chợ Bảo Lộc, nơi bọn hắn thường xuyên đậu ngủ lại sau khi bốc hàng trong rừng. Trong một lần nhậu xỉn hắn đã ngủ lại quán và hậu quả đã xảy ra, cô ấy không oán trách gì hắn vả lại cả hai lúc ấy đều chưa đủ kinh nghiệm sống để có thể phòng tránh việc ấy. Họ đã sống như bản năng yêu và được yêu, một thứ tình cảm mà những người trẻ tràn đầy. Bà mẹ của cô ấy đã thẳng tay đuổi hắn ra đường, khi hắn nghe tin và lên Bảo Lộc thăm con. Cả hai đều không có dũng khí để tạo ra bước ngoặc và chịu trôi theo số phận.
Đúng lúc đó thì hắn gặp ông Hai Tưởng, ông là một người nhỏ thó nhưng tửu lượng thật ghê gớm. Lần đầu Nhẫn gặp ông Hai là tại quán cầy tơ bình dân trong một con hẻm trên đường Cống Quỳnh. Nhẫn ngồi nhậu một mình và ông Hai cũng vậy, tới lần gặp gở thứ 3 thì họ xáp lại ngồi chung. Sau khi biết ông là một giáo sư dạy tại một trường đại học lớn hắn đã đổi cách xưng hô kêu ông bằng sư phụ. Rồi trong một lần ông dẫn hắn về nhà chơi, tự nhiên hắn nói cho hắn ở nhờ hắn sẽ lo làm việc nhà cho ông. Nhưng Nhẫn cũng không ở với ông Hai Tưởng được lâu, vì chỉ hơn tháng sau mẹ hắn đã gọi về nhà vì xã gọi hắn đi nghĩa vụ quân sự.
Họ đã giử hắn lại cho đến gần 5 năm mới cho hắn xuất ngũ, trong thời gian ấy Nhẫn hầu như đã quên mất ông giáo sư khùng. Cho tới khi hắn đạp xích lô kiếm sống thì tình cờ họ lại gặp nhau, một lần nữa số phận họ lại gắn chặt với nhau. Nhẫn lại chuyển về nhà ông ở, nhưng không chịu bỏ nghề đạp xích lô. Hắn nói, con muốn được tự mình kiếm miếng cơm chứ không muốn dựa dẩm vào ai. Ngày đạp xe, tối về hắn phụ ông những công việc lặt vặt trong nhà vì ông chỉ sống một mình. Hắn chưa bao giờ mở miệng hỏi ông về chuyện nầy, kể từ lúc ở với ông thời gian trước khi đi bộ đội.
Trong một lần dọn dẹp nhà cửa, Nhẫn phát hiện ông Hai có một căn phòng bí mật trong đó chất đầy những chai, lọ và những ống nghiệm thủy tinh trông như một phòng thí nghiệm. Chiều hôm đó hắn đem việc nầy ta hỏi ông và ông Hai đã cho hắn biết sự thật. Ta cũng muốn nói với con vì đã tới lúc ta cần sự giúp sức của con, ông tiếp tục kể:
Chuyện là công trình nầy ông nghiên cứu đã hơn chục năm, từ trước ngày giải phóng. Nhưng sau nầy vì thiếu vật tư nguyên liệu nên bị chậm, mãi đến gần đây ông mới tìm được nguồn cung cấp nên sắp đi đến kết quả cuối cùng. Chỉ cần thực tế thí nghiệm trên động vật nữa là có thể biết mức độ thành công như thế nào, và ông rất kì vọng vào nó. Ông cuối cùng cũng không cho nó biết đó là chất gì và tác dụng ra sao. Cho tới một hôm trước khi nó đi chạy xích lô, ông đưa cho nó một gói nhỏ chất bột và bảo đây là chất làm cho con người trở nên hiền dịu và dễ bảo. Con hãy tìm cách cho một người đàn ông nào thô lỗ cục cằn uống vào để thí nghiệm. Nhẫn đã nhận mà không hề thắc mắc.
Hắn quên lửng gói bột cho đến khi ngồi nhậu với mấy thằng cùng chạy xích lô ở một đầu hẻm phố Tây, khi lấy gói thuốc hút thì gói bột cũng vô tình rơi ra. Hắn bèn lén bỏ vào ly rượu của thằng Đỉnh bò, thằng đầu gấu chuyên trấn rượu của tụi hắn, nhậu không bao giờ trả tiền mà thằng nào không vừa ý còn bị nó đánh lên bờ xuống ruộng. Bửa nhậu hôm ấy sau khi ngà ngà cả đám, thằng Nhẫn lại nhớ tới lời ông Hai khi nói về tác dụng của thuốc. Nó liền tìm cách gây sự với thằng Đỉnh bò để xem có tác dụng hay không. Phải nói là trong đám xích lô đó thằng nào cũng bị thằng Đỉnh bò đánh trừ hắn, nhưng chuyện lễ phép nhún nhường là chưa hề. Nó chỉ nể vì Nhẫn là thằng có ăn học, nói năng đâu ra đó, và hình như cái gì cũng biết cho nên có gì cả bọn đều tìm nó để hỏi.
Sau khi cố tình khiêu khích thằng Đỉnh mấy câu mà không thấy nó nóng mặt như thường lệ, thằng Nhẫn dấn sâu hơn bằng cách chửi thẳng vào mặt nó lúc kêu tính tiền:
Đm cái thằng chuyên ăn ké, mầy cũng phải trả tiền nhậu như mọi người chớ?
Thằng Đỉnh làm tất cả bọn nó ngạc nhiên khi nói:
Dạ bửa nay để em trả tiền hết chổ này ạ.
Trong lúc say xỉn, cả đám bọn chúng cũng chỉ ngạc nhiên một chút rồi thôi nhưng thằng Nhẫn thì khác. Hắn biết rằng chất bột của ông Hai đã bước đầu có hiệu nghiệm, nhưng nó vẫn chưa báo cáo với ông. Trong suốt một tuần sau đó, khi cả hội cùng ăn hay chơi gì thì thằng Đỉnh bò lúc nào cũng lể phép cùng cả bọn, không khi nào nổi giận. Đúng vào lúc tụi nó đã tin là thằng nầy đổi tính thì thằng Đỉnh đánh chết thằng Hải lơ. Hôm đó như mọi khi, thằng Hải lơ kêu tính tiền xong là nó đưa tay thu tiền cả nhóm để hùn trả tiền nhậu. Khi tới thằng Đỉnh thì nó gạt tay ra và chửi:
- Đm mày muốn chết hả?
Thằng Hải lơ đã quên mất thói quen xưa của nó nên chửi lại, thế là nên chuyện lớn. Hôm ấy thằng Đỉnh giống như thằng khùng, nó đánh thằng Hải thật tàn nhẫn. Không biết sức mạnh ở đâu mà 4,5 thằng xúm vào can ra cũng làm không lại nó. Khi nó dịu lại thì thằng Hải lơ dịu nhỉu như cọng bún, khắp mình mẩy đều có vết thương. Tụi nó vội chở nó vô nhà thương cấp cứu, nhưng khi trời sáng thì thằng Hải lơ đã vĩnh viễn lơ càng.
(còn không biết bao giờ tiếp)
Hắn là một người hư hỏng nhưng lại không đủ gan để hư hỏng đến tận cùng. Nhờ thế mà hắn còn đường để quay lại làm người, để chịu tội cho những gì mình đã gây ra trong quá khứ...
Biến cố ấy hắn suy sụp hẳn, sau khi kể hết toàn bộ sự việc với ông giáo sư hắn thu dọn hành trang và ra đi. Nỗi đau và sự ray rứt đeo đẵng theo hắn, vì hắn mà có 2 người gặp nạn. Người chết thì không biết vì sao mình chết, còn người sống thì không biết vì sao mình giết người. Hắn chuộc tội mình trong rượu suốt mấy năm liền, người không ra người ngợm không ra ngợm.
Cho tới một hôm hắn gặp lại Khương tồ, một trong bốn người bạn thân thiết của hắn khi đi lính. Vào năm 1978 có một phong trào tình nguyện đi bộ đội trong giới sinh viên học sinh, tình nguyện ra trận chiến đấu trong cuộc chiến tranh biên giới K. Kế bên đơn vị hắn là ban cơ yếu Quân đoàn. Bốn đứa ấy là đám sinh viên vừa hoàn thành khóa huấn luyện quân sự trong 3 tháng và được điều về ban cơ yếu làm nhiệm vụ. Điều đáng nói là cả bốn tên đều quen biết nhau từ trước ở Hà Nội, lớn lên cùng nhau trong khu tập thể rồi cùng nhau sơ tán khi cuộc chiến trên bầu trời HN trở nên ác liệt. Hà Nội trong suy nghĩ của chúng thân thương tới nỗi nó cũng là sự khát khao cháy bỏng của hắn mỗi khi nghe nói tới. Hắn ước ao được ăn bánh tôm Hồ Tây, được đi xe điện leng keng quanh thành phố nhỏ nhắn đó; được đi dạo quanh bờ hồ, hay lòng vòng quanh những con phố nhỏ. Lần đầu hắn biết về Hà Nội 36 phố phường, rồi cửa hàng Bách Hóa HN, cửa hàng Bodega, nhà hàng Phú Gia v.v…
Sau 1975, chúng theo cha mẹ trở về Nam, rồi học đại học và tình nguyện đi lính, thế là chúng gặp hắn. Một thằng Nam bộ rặc, chả biết gì sất, nghe kể bất cứ cái gì cũng khoái. Hắn khoái tụi nó thật cho nên từ dạo đó hắn toàn cậu cậu tớ tớ với chúng, bọn đầu gà đít vịt….He he he, hắn vẫn thường nói về chúng như thế do chúng đều có cha hoặc mẹ là dân Nam bộ đi tập kết. Do sinh trưởng ngoài Bắc cho nên dĩ nhiên chúng cũng nói tiếng Bắc, một thứ tiếng mà hắn cho là điệu đàng nhưng êm tai…
Khương tồ, cái Phương, cái Hằng, cái Hà là bọn 4 tên ấy. Chúng là nữ, nhưng với hắn chúng như con trai ấy. Đứa nào đứa nấy tóc ngắn củng cởn, to xác, ngoài cái Hà hay Hà kều còn có vẻ nữ tính 1 chút còn lại đều có vóc dáng như con trai. Có lẽ do thế mà chúng chơi thân với hắn. Khi Khương tồ dẫn hắn về nhà xong, nó bèn gọi cho 3 đứa kia tới để xử lý việc của hắn. Bọn chúng quyết định tạm thời hắn sẽ ở nhà cái Phương, chỉ vì nó chưa có gia đình lại mới được cơ quan cấp cho 1 căn hộ và căn hộ nầy lại không nằm trong khu tập thể. Cả bọn sẽ cùng nhau kiếm việc làm cho hắn, mọi việc còn lại sẽ tính sau. Bàn bạc xong xuôi cả bọn lại dong hắn ra quán ăn một chầu bún chả.
Ngày xưa khi còn ở chung trong quân đội, hắn và bè lũ bốn tên nầy rất hay tranh cãi. Về việc nầy hắn luôn cho rằng đó là do sự va đập của hai nền văn hóa, tỷ như hắn khi về phép lên thế nào cũng có 1,2 cuốn sách mà hắn thích như Chương Còm, Điệu ru nước mắt, Luật hè phố, hoặc kỳ công tìm mua cho bằng được cuốn Thơ Nguyên Sa toàn tập để cho bọn chúng mượn đọc. Còn bọn ấy lại đưa cho hắn nào là Thép đã tôi thế đấy, rồi Doctor Zhivago, tuyền sách của bọn Nga xô…Còn thơ thì Tây tiến, Đôi mắt người Sơn Tây…
Khi bọn ấy đọc:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi...
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi...”
(Tây Tiến, tác giả Quang Dũng)
Thì hắn lại buông:
Năm ngón tay
Trên bàn tay năm ngón
Có ngón dài, ngón ngắn
Có ngón chỉ đường đi
Có ngón tay đeo nhẫn
Ngón tay tô môi
Ngón tay đánh phấn
Ngón tay chải đầu
Ngón tay đếm tiền
Ngón tay lái xe
Ngón tay thử coóc-sê
Ngón tay cài khuy áo
Em còn ngón tay nào
Ðể giữ lấy tay anh?
(Năm Ngón Tay, tác giả Nguyên Sa)
Chúng nó bằng tuổi nhau nhưng hắn có cảm giác bọn bè lũ bốn tên nầy già dặn hơn hắn, vì những thứ mà chúng đưa cho hắn coi đều khó đọc và có đôi chút khó hiểu. Khi bàn luận hắn có cảm giác bọn chúng hiểu tất cả những gì mà hắn đưa, còn hắn thì không, do đó hắn hay nói ngang kiểu ba làng không lại chọc cho chúng tức điên chơi, nhưng thường thì hắn thất bại. Không hiểu vì tính cách của chúng hay vì nền văn học mà chúng hấp thụ đều mang tính chiến đấu cao, không như hắn lúc nào cũng mơ mộng viễn vông.
Khi hắn đọc:
Lòng suối cạn phơi một bầy đá cuội
Rừng giáp rừng gió thổi cỏ lông măng
Đoàn quân anh đi những bóng cọp vằn
Gân mắt đỏ lạnh như tiền sắc mặt
Bốn chuyến di hành một ngày mệt ngất
Dừng chân nơi đây nói chuyện tiếu lâm chơi
Hãy tựa gốc cây hãy ngắm mây trời …
Hãy tưởng tượng mình đang đi picnic
Kẻ thù ta ơi các ngài du kích
Hãy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo
Hãy tránh xa ra ta xin tí điều
Lúc này đây ta không thèm đánh giặc
Thèm uống chai bia thèm châm điếu thuốc
Thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh
Kẻ thù ta ơi những đứa xâm mình
Ăn muối đá mà điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô ta là lính cậu
Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem cuộc chiến như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
Suy nghĩ làm chi cho lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau
Mượn trời đất làm nơi đốt hỏa châu
Những cột khói giả rừng thiêng uốn khúc
Mang bom đạn chơi trò chơi pháo tết
Và máu xương làm phân bón rừng hoang
(Chiến tranh Việt Nam Và Tôi, thơ Nguyễn Bắc Sơn)
Thì bọn ấy lại đáp:
Anh đã đến bên bờ Hắc-hải
Ngày trong veo nắng trải biển êm
Những lòng thông thì thào trên bãi
Trời rất ta mà anh thiếu em
Hôm qua giặc ném bom Bãi Cháy
Cành phi lão giập gãy bên đường
Màu hoa tím bầm như máu chảy
Đêm hạ huyền rách cả màn sương
Động trái tim ta – trời Hà Nội
Ôi những cánh đào đất Nhật Tân
Lửa thiêu đốt lửa bừng dữ dội
Phố Mạc-tư-khoa rung dưới chân
Thảm rừng đây giỡn đùa bóng sóc
Vòi nước tuôn chuỗi ngọc trong ngời
Xa lạ quá. Đời ta đánh giắc
Chẳng đang lòng mỗi lúc ngồi chơi
Xin lỗi những rừng bạch dương Nga
Hôm nay chẳng muốn nhìn cái đẹp
Người còn đây, lòng đã về nhà
Đứng tiếp đạn bên nòng súng thép
Mắt em gái hiền như mắt thỏ
Nâng niu từng ngọn cỏ, mầm cây
Nay giặc Mỹ đến nhà ta đó
Em giết thù chẳng sợ run tay
Em ạ quê ta mùa đánh Mỹ
Dòng sông vẫn gọi những lời thơ
Đem cả tình yêu làm vũ khí
Xanh biếc lòng thông vẫn đợi chờ
(Đem cả tình yêu làm vũ khí, Việt Phương)
Cứ như thế, bọn hắn tự diễn biến cùng nhau. Chiến tranh với mỗi người đều có cái dư vị khác nhau, nhưng với hắn hình như chiến tranh không là mối hiểm nguy thường trực, ngày xưa chiến tranh đi qua đời hắn như một câu chuyện đâu đó ở bên lề cuộc sống. Nó không hiện diện thường trực tới độ phải cảnh giác và căng thẳng, nó nhẹ nhàng hơn, kiểu như:
Đại bác đêm đêm dội về thành phố người phu quét đường dừng chổi lắng nghe…vâng chỉ dừng chổi lắng nghe thôi chứ không sợ hãi trốn chạy.
Bọn chúng luôn tranh cãi, nhưng lại rất ư thân thiện không bao giờ lớn tiếng với nhau. Tình cảm giửa chúng thân thiết đến nổi có đôi khi hắn quên cả chúng là con gái mà gác chân lên mình cái Phương, còn cái Hà thì nằm dựa đầu lên bụng hắn. Nhưng quả thật chơi với chúng hắn có lợi rất nhiều, dù gì bọn chúng cũng mang những đặc tính của nữ nhân, do đó may vá quần áo chúng đều lo cho hắn, thậm chí tới giờ ăn cũng chờ hắn ăn chung rồi mang những thứ ngon lành đem từ nhà ra ăn thêm. Dĩ nhiên hắn là người ăn nhiều nhất, nhưng bọn chúng chả bao giờ than phiền gì về hắn. Thời gian sống chung với chúng, những thằng con gái không nhiều chỉ độ hơn năm, nhưng để lại cho hắn những kí ức hạnh phúc, vì hắn cho rằng tất cả bọn chúng đều hiểu nhau tường tận chỉ có điều không nói ra mà thôi…
Khi cái Phương đi làm hắn ngồi ngẫm nghĩ, chúng nó là bạn tốt nhưng mình không thể để liên lụy chúng được. Nhất là cái Phương, bề gì nó cũng là một kỷ sư trưởng phòng KCS một công ty lớn, lại chưa có gia đình giờ lại sống chung với một thằng có bộ dạng ăn mày như hắn thì ai mà coi cho được. Thế là hắn lại ra đi để lại mảnh giấy: Tớ đi đây, ở lại đây dù chỉ vài ngày khéo tớ yêu cậu mất.
Nhưng quả là bọn nó, bọn đầu gà đít vịt ấy không hiểu sao khi ở chung với bọn chúng hắn lại cảm thấy rất thoải mái. Lòng tràn đầy hân hoan hắn lên đường tìm lại cuộc đời….
PS: Nhiều năm sau khi gặp lại cái Hà, nó kể: ngày cậu ra đi cái Phương nó khóc suốt, sau cậu ngốc thế? Nó không có gia đình là có ý chờ cậu đấy, vậy mà cậu lại đành lòng bỏ đi như thế. Hắn chỉ cười đáp: thì tớ nào giờ thuộc loại ngốc xịt cơ mà…